Điện hạt nhân - Các nước Đông Nam Á đang quan sát chặt chẽ từng bước đi của nhau - Chi tiết bài viết | Vietcap AI News
- 2024-10-22 06:24:00
- OTHER
Nghiên cứu và phát triển năng lượng hạt nhân đã diễn ra ở Đông Nam Á trong hơn 40 năm trở lại đây, nhưng khu vực này vẫn còn thời gian khá xa để có nhà máy điện hạt nhân đầu tiên đi vào hoạt động.
Nhà máy điện hạt nhân duy nhất của Đông Nam Á tọa lạc tại địa điểm cách Thủ đô Manila của Philippines khoảng 70 km về phía Tây. Nhưng kể từ khi hoàn thành vào năm 1985, nhà máy này chưa bao giờ được cấp điện.
Nhà máy điện hạt nhân Bataan công suất 620 MW là đỉnh cao của chương trình phát triển hạt nhân kéo dài gần 30 năm, mất hơn một thập kỷ và hơn 2 tỷ đô la Mỹ để xây dựng. Nhà máy này đã trở thành nạn nhân của thời điểm không thích hợp.
Đầu tiên, sự cố tan chảy một phần của cơ sở hạt nhân Three Mile Island ở Pennsylvanưia tại Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 1979 đã khiến việc xây dựng nhà máy Bataan phải tạm dừng. Một cuộc điều tra về an toàn sau đó đã tiết lộ những khiếm khuyết và lo ngại về an toàn.
Vào tháng 2 năm 1986, Tổng thống khi đó là Ferdinand Marcos - người đã quyết định xây dựng nhà máy Bataan đã bị lật đổ.
Hai tháng sau, thảm họa hạt nhân Chernobyl kinh hoàng ở Liên Xô đã định đoạt số phận của lò phản ứng của Philippines.
Hiện tại, gần 40 năm sau, nhà máy Bataan đã trở thành điểm thu hút khách du lịch và là biểu tượng cho thấy sự phức tạp của một quốc gia khi dấn thân vào năng lượng hạt nhân.
Tuy nhiên, điều đó không ngăn cản một số quốc gia Đông Nam Á nghiêm túc xem xét năng lượng hạt nhân như một nguồn năng lượng tiềm năng, khi họ cân nhắc các cách khai thác năng lượng sạch để cung cấp năng lượng cho nền kinh tế đang phát triển của mình trong khi vẫn phải tuân thủ cam kết chống biến đổi khí hậu.
Trên thực tế, một số quốc gia trong khu vực này đã bắt đầu nghiên cứu tính khả thi của năng lượng hạt nhân từ nhiều thập kỷ trước, các lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu được xây dựng tại khu vực này từ những năm 1960.
Tiến độ phần lớn bị đình trệ của điện hạt nhân do không nhận được sự chấp thuận của công chúng và lo ngại về vấn đề an toàn, điều này càng gia tăng mỗi khi xảy ra các sự cố lò phản ứng nghiêm trọng, bất chấp sự cố xảy ra và tỷ lệ tử vong tương đối thấp.
Sau thảm họa Chernobyl năm 1986, vẫn là sự cố duy nhất gây tử vong do nhà máy điện hạt nhân, vụ tai nạn hạt nhân Fukushima ở Nhật Bản vào tháng 3 năm 2011 đã làm dấy lên mối lo ngại về an toàn, một lần nữa làm chệch hướng tham vọng năng lượng hạt nhân của một số quốc gia.
Mặc dù không có ai tử vong do hậu quả trực tiếp của thảm họa Fukushima, nhưng bức xạ đã được giải phóng vào khí quyển khi một cơn sóng thần gây ra bởi trận động đất lớn đã phá hủy một số lò phản ứng ở đó.
Cùng tháng đó, Thái Lan tuyên bố dừng vô thời hạn các kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân.
Nhưng trong khoảng một thập kỷ kể từ đó, sự quan tâm đến năng lượng hạt nhân đã bắt đầu tăng trở lại trong khu vực, do nhu cầu năng lượng ngày càng tăng và mối quan tâm về khí hậu.
Theo dự báo kịch bản cơ sở trong báo cáo Triển vọng năng lượng mới nhất của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được công bố vào ngày 26/9/2024, mức tiêu thụ năng lượng trong khu vực dự kiến sẽ tăng 2,6 lần vào năm 2050 so với mức năm 2022.
Năm nay, Indonesia đã đưa ra dự báo về việc vận hành nhà máy điện hạt nhân thương mại đầu tiên của quốc gia này từ năm 2045 (theo Cơ quan Nghiên cứu và Đổi mới Quốc gia Indonesia).
Singapore và một số quốc gia láng giềng khác đã nói rõ rằng, họ chưa đưa ra quyết định, nhưng năng lượng hạt nhân vẫn chưa nằm ngoài tầm ngắm và đang được nghiên cứu cùng với các lựa chọn năng lượng bền vững khác.
Trong khi đó, ASEAN đã tăng cường hợp tác trong lĩnh vực này. Ví dụ, một mạng lưới chính thức các cơ quan quản lý giữa các quốc gia thành viên đã được thành lập vào năm 2013.
Các quốc gia cũng đã phác thảo một thỏa thuận về cách các thành viên nên theo dõi bức xạ và các phương pháp để xử lý một cuộc khủng hoảng hạt nhân tiềm ẩn.
Trong khi tất cả các bước này đặt nền tảng cho khả năng một nhà máy điện hạt nhân hoạt động trong khu vực, các chuyên gia nói với CNA TODAY rằng: Nhiều vấn đề phải được giải quyết trước khi điều đó thành hiện thực.
Những điều này bao gồm phải có sẵn các quỹ để đầu tư vào năng lượng hạt nhân, mức độ chấp nhận của công chúng và ý chí chính trị.
Nhưng ngay cả khi những thách thức này đang được giải quyết, mỗi quốc gia cũng nên xây dựng năng lực độc lập trong việc phát triển và quản lý năng lượn hạt nhân.
Ngay cả khi các quốc gia không có chủ trương phát triển lò phản ứng, họ vẫn cần biết cách bảo vệ an toàn cho công dân của mình và xử lý một cuộc khủng hoảng tiềm tàng nếu các nước láng giềng của họ sử dụng năng lượng hạt nhân.
TÌNH TRẠNG CỦA KHU VỰC:
Năm 2012, một nghiên cứu tiền khả thi đã kết luận rằng các lò phản ứng hạt nhân lớn thông thường không phù hợp với Singapore. Các nhà chức trách cho rằng, đất nước Singapore quá nhỏ và mật độ đông dân số không phù hợp với một lò phản ứng như vậy.
Tuy nhiên, nghiên cứu khuyến nghị rằng: Nước này nên tiếp tục tăng cường năng lực để theo dõi tiến trình của các công nghệ năng lượng hạt nhân trên toàn thế giới.
Trong phản hồi chung cho các câu hỏi của CNA TODAY, Bộ Thương mại và Công nghiệp (MTI), Cơ quan Môi trường Quốc gia (NEA) và Cơ quan Thị trường Năng lượng (EMA) cho biết: EMA đã quan tâm tới các công nghệ hạt nhân tiên tiến như là lò phản ứng mô-đun nhỏ.
Đây là những lò phản ứng hạt nhân nhỏ, nhưng tiên tiến, có công suất bằng khoảng một phần ba so với lò phản ứng điện hạt nhân truyền thống.
ĐÀO TẠO NHÂN LỰC HẠT NHÂN CỦA SINGAPORE:
Khuyến nghị của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) chỉ ra rằng: Bất kỳ quốc gia nào cân nhắc áp dụng năng lượng hạt nhân nên phát triển 19 lĩnh vực cơ sở hạ tầng khác nhau (chẳng hạn như quản lý chất thải phóng xạ và khuôn khổ pháp lý và quy định).
Theo IAEA, một quốc gia mới tiếp cận năng lượng hạt nhân thường mất hàng thập kỷ để triển khai từ việc xây dựng năng lực ban đầu đến việc đưa nhà máy điện hạt nhân đầu tiên vào vận hành.
Trong khi đó, Singapore đã từng bước phát triển năng lực khoa học và công nghệ hạt nhân để đánh giá những tác động, cũng như lợi ích của các công nghệ mới và sự phát triển năng lượng hạt nhân trong khu vực.
Ví dụ, Chính phủ đã cam kết 63 triệu đô la Singapore để thiết lập Sáng kiến Nghiên cứu và An toàn Hạt nhân Singapore (SNRSI) tại Đại học Quốc gia Singapore (NUS).
Cho đến nay, SNRSI đã trao 30 suất học bổng cho các nghiên cứu sau đại học và đã phát triển một đội ngũ khoảng 40 nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực liên quan đến khoa học và kỹ thuật hạt nhân.
“Chúng tôi đã tiếp tục đầu tư để xây dựng năng lực của SNRSI trong phân tích an toàn hạt nhân, sinh học phóng xạ và hóa học phóng xạ, với mục tiêu xây dựng một nhóm gồm 100 chuyên gia về an toàn hạt nhân” - Tiến sĩ Chung Keng Yeow - Giám đốc SNRSI chia sẻ với CNA TODAY.
Singapore đã và đang thúc đẩy “văn hóa an toàn mạnh mẽ” tại các nền tảng khu vực và đang xây dựng chuyên môn trong các lĩnh vực như nghiên cứu lò phản ứng, phát hiện vật liệu phóng xạ trong môi trường, cũng như tác động của bức xạ đối với sức khỏe con người.
Bằng cách phát triển ngành công nghiệp hạt nhân của riêng mình, Singapore sẽ áp dụng “các biện pháp thích hợp” cần thực hiện và giúp đỡ các nước láng giềng trong trường hợp “bất khả kháng xảy ra”. (Chẳng hạn nếu một vụ tai nạn nghiêm trọng sẽ xảy ra trong tương lai).
Singapore cũng đã thiết lập quan hệ với các cường quốc hạt nhân và các chuyên gia trên toàn thế giới, cho phép họ khai thác chuyên môn bên ngoài. Vào tháng 7/2024, Singapore đã trở thành quốc gia thứ tư ở Đông Nam Á ký kết thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự với Hoa Kỳ, ‘Thỏa thuận 123’. Thỏa thuận này giúp Singapore tiếp cận với các công nghệ và chuyên môn về năng lượng hạt nhân đang được kiểm soát xuất khẩu.
Từ năm 1967, Singapore đã là quốc gia thành viên của IAEA - cơ quan chính về hợp tác trong lĩnh vực hạt nhân. Singapore đã giữ chức vụ năm nhiệm kỳ trong hội đồng quản trị của IAEA.
NEA là “thành viên tích cực” của Mạng lưới các cơ quan quản lý năng lượng nguyên tử ASEAN (ASEANTOM).
Thay vào đó, các chuyên gia chỉ ra Indonesia, Việt Nam và Philippines là những quốc gia đi đầu về nghiên cứu hạt nhân trong khu vực. Đây cũng là ba quốc gia Đông Nam Á đầu tiên ký Hiệp định 123 với Hoa Kỳ. Hiệp định này quy định về hợp tác hạt nhân hòa bình như xuất khẩu vật liệu hạt nhân từ Hoa Kỳ sang quốc gia khác, cũng như chuyển giao giáo dục và công nghệ giữa các quốc gia đối tác.
Nhưng như dòng thời gian cho thấy, việc áp dụng năng lượng hạt nhân ở khu vực này không hề dễ dàng:
INDONESIA:
Năm 1981: Indonesia trở thành quốc gia Đông Nam Á đầu tiên ký Hiệp định 123.
Năm 1996: Xác định được địa điểm tiềm năng cho một nhà máy điện hạt nhân.
Năm 1997: Kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân bị hoãn vô thời hạn do sự phản đối của công chúng và phát hiện ra một mỏ khí đốt.
Năm 2010-2016: Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc gia (BATAN) đã tiến hành một cuộc khảo sát ý kiến công chúng về hạt nhân kéo dài 7 năm, báo cáo rằng: Tỷ lệ ủng hộ tăng đều qua từng năm, đạt 77,5% ủng hộ cho chương trình điện hạt nhân trong năm kết thúc cuộc khảo sát.
Năm 2014: BATAN công bố các cuộc điều tra tại Jepara, Trung Java và Bangka-Belitung ở Sumatra để phát triển nhà máy điện hạt nhân.
Tháng 6 năm 2024: Indonesia cho biết, họ đặt mục tiêu thử nghiệm và vận hành nhà máy điện hạt nhân thương mại đầu tiên của mình vào khoảng thời gian từ năm 2030 đến năm 2034 (theo Cơ quan Nghiên cứu và Đổi mới Quốc gia Indonesia).
MALAYSIA:
Năm 1982: Lò phản ứng nghiên cứu hạt nhân TRIGA PUSPATI tại Bangi, Selangor bắt đầu hoạt động.
Năm 2018: Khi đó, Thủ tướng Mahathir Mohamad cho biết, Chính phủ đã quyết định không sử dụng năng lượng hạt nhân ở Malaysia, viện dẫn các vụ tan chảy hạt nhân trong quá khứ.
Năm 2023: Bộ trưởng Kinh tế Rafizi Ramli cho biết: Năng lượng hạt nhân vẫn nằm trong danh sách nguồn năng lượng.
Năm 2024: Bộ trưởng Tài nguyên thiên nhiên và Phát triển bền vững môi trường Nik Nazmi Nik Ahmad cho biết trong một hội nghị ở Singapore rằng: Malaysia đang “khởi động lại nghiên cứu và tìm hiểu” về hạt nhân như một nguồn năng lượng tiềm năng.
THÁI LAN:
Năm 2007: Quốc hội đã thông qua kế hoạch phát triển năng lượng, bao gồm xây dựng bốn nhà máy điện hạt nhân vào những năm 2020; kế hoạch đã được thu hẹp quy mô vào năm 2009 xuống còn hai nhà máy.
Năm 2011: Phó thủ tướng Suthep Thaugsuban tuyên bố rằng: Thái Lan sẽ dừng vô thời hạn mọi kế hoạch xây dựng các cơ sở hạt nhân, trước thảm họa nhà máy điện hạt nhân Fukushima.
Năm 2024: Thủ tướng Srettha Thavisin cho biết đất nước đang tìm hiểu công nghệ lò phản ứng hạt nhân mô-đun nhỏ để đa dạng hóa hỗn hợp năng lượng của mình.
PHILIPPINES:
Năm 1985: Nhà máy điện hạt nhân Bataan đã hoàn thành, nhưng không bao giờ được tiếp nhiên liệu, hoặc đưa vào vận hành do các vấn đề tài chính, lo ngại về an toàn, và cuối cùng đã bị đóng cửa sau thảm họa Chernobyl.
Năm 2022: Tổng thống Ferdinand Marcos Jr tuyên bố trong bài phát biểu về tình hình quốc gia rằng: Đã đến lúc phải xem xét lại chiến lược xây dựng nhà máy điện hạt nhân của đất nước, phù hợp với nhu cầu năng lượng ngày càng tăng.
Năm 2024: Philippines trở thành quốc gia Đông Nam Á thứ ba ký Hiệp định 123 với Hoa Kỳ.
VIỆT NAM:
Năm 2010: Việt Nam ký các thỏa thuận riêng với Nga và Nhật Bản để xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân tại tỉnh Ninh Thuận, với kế hoạch ban đầu là khởi công vào năm 2014 và dự kiến đi vào hoạt động từ năm 2020.
Năm 2014: Việt Nam trở thành quốc gia Đông Nam Á thứ hai ký Hiệp định 123 với Hoa Kỳ.
Năm 2016: Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu hoãn các kế hoạch xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân để chuyển sang sử dụng điện than và khí đốt với chi phí thấp hơn.
Năm 2024: Nga đề nghị giúp Việt Nam phát triển năng lượng hạt nhân.
Năm 2024: Việt Nam đang cân nhắc khôi phục các kế hoạch phát triển điện hạt nhân.
TIẾP THEO LÀ GÌ?
Theo như chuỗi thời gian khởi động và dừng lại này có thể chỉ ra rằng: Đông Nam Á vẫn chưa tiến gần đến việc vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, mặc dù đã có hơn 400 lò phản ứng có thể hoạt động trên toàn thế giới tính đến cuối năm 2023.
Không phải do bất kỳ yếu tố địa chất nào: Mặc dù các quốc gia như Philippines và Indonesia nằm dọc theo “Vành đai lửa” Thái Bình Dương, một khu vực dễ xảy ra động đất và phun trào núi lửa, nhiều địa điểm ở Đông Nam Á đã được đánh giá là phù hợp để triển khai hạt nhân.
Ví dụ, các địa điểm mà Indonesia xem xét để xây dựng nhà máy điện hạt nhân không nằm trong vùng dễ xảy ra động đất.
Tiến sĩ Nian cho biết: “Với một nghiên cứu khả thi cẩn thận và chi tiết liên quan đến địa chấn, khí hậu và các yếu tố rủi ro bên ngoài khác, các quốc gia ASEAN không phải đối mặt với các yếu tố rủi ro cao hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới”.
Hơn nữa, các nhà máy điện hạt nhân được thiết kế để chịu được động đất và có một số nhà máy hoạt động ở các khu vực dễ xảy ra động đất như Nhật Bản, Ý và California - Tiến sĩ Alvin Chew, thành viên cấp cao tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S Rajaratnam (RSIS) thuộc Đại học Công nghệ Nanyang (NTU) lưu ý.
Ngoài các cơ chế an toàn hiện có trong lò phản ứng hạt nhân, các công nghệ mới hơn như lò phản ứng mô-đun nhỏ đã xuất hiện, dẫn đến việc thu hẹp khu vực lập kế hoạch khẩn cấp, hoặc khu vực được chỉ định xung quanh nhà máy điện hạt nhân - nơi phải đưa ra các kế hoạch đặc biệt để bảo vệ công chúng trong trường hợp khẩn cấp về phóng xạ. Chúng cũng có chi phí trả trước thấp hơn so với các nhà máy lớn hơn.
Giám đốc SNRSI Chung Keng Yeow cho biết: Một lợi thế mà các quốc gia mới tham gia có thể có là khả năng lựa chọn các công nghệ tiên tiến và an toàn hơn.
Ông nói thêm: “(Các quốc gia mới tham gia) sẽ học được từ kinh nghiệm của Fukushima, về mặt lựa chọn địa điểm và thực hiện nhiều bước bổ sung để đảm bảo rằng các tình huống tương tự, hoặc thậm chí các tình huống khác sẽ không xảy ra”.
Nhưng các chuyên gia hạt nhân từ Singapore và các nước láng giềng đã nêu ra một loạt lý do tại sao việc áp dụng mạnh mẽ năng lượng hạt nhân có thể vẫn còn cách xa hàng thập kỷ đối với khu vực này.
Tại Indonesia, mặc dù năng lượng hạt nhân đã được đưa vào kế hoạch từ những năm 1950, nhưng việc có sẵn các giải pháp thay thế rẻ hơn đã trở thành rào cản đối với cam kết phát triển lĩnh vực hạt nhân - theo ông Putra Adhiguna - Giám đốc điều hành của Viện nghiên cứu Energy Shift có trụ sở tại Indonesia.
“Thách thức lớn nhất là chúng ta có rất nhiều than giá rẻ” - ông Putra cho biết.
Là một thị trường mới nổi, Indonesia cũng rất nhạy cảm với giá cả, vì vậy chi phí vốn lớn cần thiết để xây dựng và đưa vào vận hành một nhà máy điện hạt nhân là một trở ngại lớn.
Các chuyên gia cũng chỉ ra chi phí kinh tế đáng kể liên quan đến bất kỳ sự cố hạt nhân nào.
Chi phí khắc phục cho việc dọn dẹp vụ tai nạn Fukushima năm 2011 đã khiến Chính phủ Nhật phải bồi thường khoảng 13,5 nghìn tỷ yên (94 tỷ đô la Mỹ) để trả cho các khoản bồi thường và chi phí dọn dẹp.
“Xây dựng nhà máy điện là một chuyện, nhưng thực sự đảm bảo trách nhiệm pháp lý lâu dài của một sự cố như Fukushima lại là chuyện khác” - ông Putra cho biết.
Ký ức về các vụ tai nạn hạt nhân như Fukushima và Chernobyl cũng vẫn còn và tiếp tục định hình nhận thức của công chúng về năng lượng hạt nhân trong toàn khu vực.
Một nghiên cứu năm 2018 tìm hiểu nhận thức của công chúng về năng lượng hạt nhân ở Singapore phát hiện ra rằng: Hầu hết những người tham gia “ngay lập tức liên kết” rủi ro của năng lượng hạt nhân với Fukushima và Chernobyl, với nhiều người tham gia mô tả hình thức năng lượng này là nguy hiểm, hoặc có tính hủy diệt cao.
Các chuyên gia chỉ ra rằng: Việc đạt được sự ủng hộ của công chúng, đặc biệt là đối với cư dân sống gần các địa điểm có khả năng xây dựng nhà máy điện hạt nhân, cũng rất quan trọng.
Tiến sĩ Chew từ RSIS cho biết: Do hiện tại không có nhà máy điện hạt nhân nào đang hoạt động ở Đông Nam Á nên nhận thức của công chúng về năng lượng hạt nhân sẽ “vẫn ở mức thấp”.
“Tuy nhiên, sự chấp nhận năng lượng hạt nhân trong khu vực đang thay đổi, được thúc đẩy bởi thực tế là biến đổi khí hậu gây ra mối đe dọa lớn hơn nhiều đối với nhân loại so với các vấn đề an ninh truyền thống” - Tiến sĩ Chew cho biết. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế, tiến bộ công nghệ trong khu vực sẽ thúc đẩy nhu cầu và mức tiêu thụ năng lượng tăng lên.
Cùng chung quan điểm trên, Tiến sĩ Chung từ SNRSI cho biết: Vì nhiều người coi năng lượng hạt nhân là một phần của giải pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu, nên có “khả năng lớn” là các nhà máy như vậy có thể được xây dựng sớm nhất là vào những năm 2030, hoặc 2040.
Khi Đông Nam Á quyết định lựa chọn năng lượng hạt nhân, đó sẽ là một nỗ lực lớn. IAEA đã chỉ ra rằng: Một chương trình năng lượng hạt nhân liên quan đến cam kết “khoảng 100 năm”.
Với thực tế này, các chuyên gia cho biết: Sự quản lý ổn định và ý chí chính trị là những yếu tố quan trọng sẽ định hình mốc thời gian áp dụng năng lượng hạt nhân ở bất kỳ quốc gia nào.
“Với việc áp dụng năng lượng hạt nhân đối với các quốc gia mới tham gia thường có thể mất khoảng 10 đến 15 năm, điều quan trọng là phải có một chính phủ ổn định có thể giám sát toàn bộ quá trình lập kế hoạch và triển khai” - Tiến sĩ Chew của RSIS cho biết.
Ông bổ sung thêm rằng: Năng lượng hạt nhân có thể là vấn đề nhạy cảm về mặt chính trị ở một số quốc gia trong khu vực này, do nhận thức và hiểu biết của công chúng về công nghệ này còn non trẻ.
Có những ví dụ hiện tại cho thấy chủ đề năng lượng hạt nhân có thể trở thành vấn đề chính trị nóng hổi như thế nào. Hiện nay, ở Úc, năng lượng hạt nhân đang được tranh luận, với các đảng phái chính trị khác nhau có lập trường mạnh mẽ và đối lập, trước cuộc bầu cử quốc gia năm 2025, về việc có nên triển khai lò phản ứng hạt nhân ở quốc gia này lần đầu tiên hay không.
Vào tháng 6 năm nay, Đảng Tự do bảo thủ đối lập đã công bố bảy địa điểm trên khắp nước Úc - nơi họ đề xuất xây dựng các nhà máy điện hạt nhân vào những năm 2030. Kế hoạch này bị Đảng Lao động cầm quyền phản đối mạnh mẽ.
Trong một ví dụ khác về cách thay đổi lãnh đạo có thể đột ngột làm thay đổi sự phát triển năng lượng hạt nhân của một quốc gia, ông Nik Nazmi, Bộ trưởng Phát triển bền vững của Malaysia, cho biết trong một hội nghị ở Singapore vào tháng 6 rằng: Đất nước của ông “luôn luôn, trong nhiều năm nghiên cứu về năng lượng hạt nhân”.
Nhưng nghiên cứu này phần lớn đã dừng lại sau khi Tiến sĩ Mahathir Mohamad nhậm chức Thủ tướng lần thứ hai vào năm 2018, ông cho biết thêm.
THEO DÕI TRONG KHU VỰC:
Theo tình hình hiện tại, sự quan tâm đến năng lượng hạt nhân vẫn không đồng đều ở khu vực này, các chuyên gia chỉ ra Brunei, Lào và Campuchia là những quốc gia ít quan tâm đến loại năng lượng này.
“Tuy nhiên, các quốc gia này cũng đã tham gia rất tích cực vào các cuộc thảo luận, hoặc đào tạo về việc sử dụng các công nghệ hạt nhân khác (ngoài năng lượng hạt nhân) do IAEA tổ chức hoặc ở cấp khu vực” - Tiến sĩ Chung cho biết.
Tiến sĩ Nian của CSER cho hay: “Điều quan trọng đối với các quốc gia thành viên ASEAN là tăng cường hợp tác trong nghiên cứu, thanh sát hạt nhân, và quan trọng hơn là thông báo cho các nước láng giềng về các quyết định xây dựng mới, cũng như các quyết định quan trọng khác có khả năng tác động đến khu vực”.
Ông nói thêm rằng: Có sự đồng thuận giữa các quốc gia trong khu vực này để hợp tác trong các lĩnh vực như an toàn, an ninh và bảo vệ hạt nhân, vì đây là chìa khóa để đảm bảo việc áp dụng năng lượng hạt nhân diễn ra suôn sẻ của bất kỳ quốc gia nào trong khu vực.
ASEANTOM khuyến khích tính minh bạch hơn thông qua việc chia sẻ thông tin liên quan đến kỹ thuật và an toàn giữa các quốc gia thành viên.
Mạng lưới này cũng hợp tác với IAEA để xây dựng các quy trình cho các trường hợp khẩn cấp về phóng xạ. Ví dụ, một quy trình nêu rằng: Nếu một sự kiện xảy ra dẫn đến trường hợp khẩn cấp về hạt nhân, hoặc phóng xạ, quốc gia nơi xảy ra sự cố phải chia sẻ tất cả dữ liệu giám sát bức xạ có sẵn với các quốc gia thành viên khác.
Tiến sĩ Chew cho biết: Bất kể các quốc gia trong khu vực có kế hoạch triển khai chương trình năng lượng hạt nhân hay không, việc tất cả các quốc gia ASEAN ký kết các công ước về an toàn và an ninh của IAEA nên được khuyến khích.
Ví dụ, nếu tất cả các quốc gia ASEAN tham gia các hiệp ước an toàn ràng buộc về mặt pháp lý, chẳng hạn như các công ước về thông báo sớm và hỗ trợ của IAEA, các biện pháp ứng phó trong trường hợp xảy ra bất kỳ trường hợp khẩn cấp hạt nhân nào trong khu vực sẽ được tăng cường.
Trong khi các quốc gia trong khu vực sẽ tự xác định mốc thời gian và chiến lược riêng để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, cũng như các thách thức về an ninh năng lượng của họ (bao gồm cả việc có nên khai thác năng lượng hạt nhân hay không) thì không có nghi ngờ gì rằng họ đang theo dõi chặt chẽ các động thái của nhau do ảnh hưởng của những tác động sâu sắc.
Nếu một quốc gia Đông Nam Á triển khai chương trình năng lượng hạt nhân, thì điều đó có khả năng sẽ thúc đẩy các quốc gia khác trong khu vực cân nhắc đưa ra những quyết định tương tự, vì họ đã phải phát triển “năng lực hạt nhân phụ trợ” trong các lĩnh vực như ứng phó khẩn cấp hoặc an ninh hạt nhân.
“Những (lĩnh vực) chuyên môn tiềm năng này được phát triển có khả năng sẽ thúc đẩy các quốc gia cân nhắc lựa chọn hạt nhân”. Tiến sĩ Chew bổ sung thêm: “Các mốc thời gian không phụ thuộc vào việc mọi người trong khu vực theo dõi lẫn nhau… Nhưng chắc chắn khi một quốc gia trong ASEAN tiến gần đến năng lượng hạt nhân, điều đó có khả năng sẽ tạo động lực để các quốc gia khác cũng đi theo”./.
TỔNG HỢP, BIÊN DỊCH: NGUYÊN THỊ THU HÀ - VINATOM
Nguồn: https://www.channelnewsasia.com/today/big-read/nuclear-energy-interest-southeast-asia-4652231